Thời gian qua, việc giải quyết chế độ cho người tham gia hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học và con đẻ của họ đã được triển khai sâu rộng trên địa bàn toàn tỉnh. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã bộc lộ nhiều vướng mắc khiến các đơn vị thực hiện lúng túng và gây bức xúc cho các đối tượng vì thủ tục phức tạp cần sớm được tháo gỡ, giải quyết.
Nghị định số 31/2013/NĐ-CP quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng, trong đó có đối tượng là người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học có hiệu lực thi hành đã gần 1 năm nay. Triển khai thực hiện Nghị định này, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH) cũng đã ban hành Thông tư số 05/2013, liên Bộ Y tế và Bộ LĐ-TB&XH ban hành Thông tư liên tịch số 41/2013. Thực hiện các văn bản trên, liên Sở: Y tế và LĐ-TB&XH đã kịp thời ban hành hướng dẫn số 56 về việc lập thủ tục hồ sơ xác nhận người hoạt động kháng chiến và con đẻ của họ bị phơi nhiễm với chất độc hoá học.
Thủ tục phức tạp gây tâm lý mệt mỏi cho các đối tượng tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học khi làm hồ sơ giải quyết chế độ. Trong ảnh: Ông Phạm Xuân Thuỷ, thôn Hạ 2, xã Tràng An (Đông Triều) phản ảnh với phóng viên Báo Quảng Ninh.
Theo số liệu thống kê của Sở LĐ-TB&XH, sau 2 tháng triển khai thực hiện, đến nay mới có 2 địa phương là Đông Triều và Móng Cái chuyển hồ sơ về Sở để giải quyết, trong đó Đông Triều có 150 hồ sơ và Móng Cái là 15 hồ sơ. Tuy nhiên, 165 hồ sơ trên đều được chuyển trả lại địa phương để hoàn thiện lại do chưa đúng với quy định của pháp luật. Cụ thể là trong thời gian triển khai do chưa được hướng dẫn về mẫu “tóm tắt bệnh án điều trị” nên khi đối tượng có yêu cầu cung cấp bản “tóm tắt bệnh án”, các bệnh viện vẫn thực hiện sao hồ sơ bệnh án để cung cấp cho các đối tượng, do vậy hồ sơ không hợp lệ và bị trả về.
Để tháo gỡ vướng mắc, hoàn thiện hồ sơ giải quyết chế độ cho đối tượng, ngày 7/3/2014, Sở LĐ-TB&XH đã có văn bản số 305 đề nghị Sở Y tế xem xét và hướng dẫn chỉ đạo các bệnh viện thuộc thẩm quyền quản lý thực hiện cung cấp “bản tóm tắt bệnh án điều trị” cho đối tượng theo quy định. Trên cơ sở đề nghị của Sở LĐ-TB&XH, ngày 19/3/2014, Sở Y tế mới có văn bản hướng dẫn mẫu “bản tóm tắt bệnh án” và chỉ đạo các đơn vị khám chữa bệnh trực thuộc xây dựng quy trình và triển khai việc cung cấp bản tóm tắt hồ sơ bệnh án cho bệnh nhân.
Tìm hiểu tại Đông Triều, là một trong những địa phương nhanh chóng triển khai thủ tục giải quyết chế độ tới người dân, được biết, ngay khi có hướng dẫn của liên Sở, Phòng LĐ-TB&XH huyện Đông Triều đã ban hành văn bản hướng dẫn các địa phương và đối tượng lập hồ sơ xác nhận. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, các đối tượng đã gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc hoàn thiện hồ sơ, gây bức xúc trong nhân dân.
Ông Phạm Xuân Thuỷ, thôn Hạ 2, xã Tràng An (huyện Đông Triều) vừa lật giở tập hồ sơ vừa bức xúc kể với chúng tôi: Đã 2 tháng nay tôi phải đi lại rất nhiều lần để làm hồ sơ nhưng vẫn chưa được nên thực sự cảm thấy rất mệt mỏi. Ban đầu, khi làm hồ sơ, chúng tôi được thông báo là cung cấp giấy ra viện nhưng sau đó bị trả lại và yêu cầu cung cấp bản tóm tắt bệnh án. Khi đến bệnh viện yêu cầu được cung cấp bản tóm tắt bệnh án điều trị thì chưa được cung cấp với lý do bệnh viện chưa biết nội dung mẫu bản tóm tắt bệnh án như thế nào. Đến nay, khi Sở Y tế có hướng dẫn các đơn vị làm tóm tắt bệnh án, bệnh viện có hẹn ngày đến cung cấp bản tóm tắt bệnh án nhưng tôi vẫn rất băn khoăn chưa đến nhận. Bởi lẽ, trong hồ sơ bệnh án của tôi được chẩn đoán là “bệnh thần kinh ngoại biên cấp tính và bán cấp tính” (phù hợp theo quy định cũ tại Thông tư 08/2009 của Bộ LĐ-TB&XH và Quyết định 09 của Bộ Y tế ban hành ngày 20/2/2008). Nhưng theo quy định mới tại Thông tư liên tịch số 41 thì chỉ chấp nhận ghi “bệnh thần kinh ngoại biên cấp tính hoặc bán cấp tính”, tức là mắc một trong hai loại bệnh trên chứ không được đồng thời cả hai loại bệnh. Khi làm tóm tắt bệnh án điều trị, bệnh viện phải tuân thủ nguyên tắc tóm tắt theo đúng hồ sơ bệnh án, do vậy bệnh của tôi lại không được chấp nhận.
Theo ông Nguyễn Thành Xung, Giám đốc Bệnh viện Đa khoa Đông Triều cho biết: Việc xác định “bệnh thần kinh ngoại biên cấp tính hoặc bán cấp tính” có tính chính xác về ngôn từ cao hơn là xác định “bệnh thần ngoại biên cấp tính và bán cấp tính”. Tuy nhiên, một người vẫn có thể mắc hai bệnh “thần kinh ngoại biên cấp tính” và “thần kinh ngoại biên bán cấp tính” do trong quá trình điều trị kéo dài, bệnh nhân có thể chuyển từ giai đoạn cấp tính sang giai đoạn bán cấp tính. Về bệnh lý, tôi cho rằng việc quy định “bệnh thần kinh ngoại biên cấp tính hoặc bán cấp tính” và quy định “bệnh thần kinh ngoại biên cấp tính và bán cấp tính” là hai loại bệnh tương đương nhau.
Huyện Đông Triều có 90% đối tượng được chẩn đoán mắc bệnh thần kinh ngoại biên cấp tính và bán cấp tính. Nếu không sớm có hướng tháo gỡ vướng mắc về vấn đề này thì sẽ có nhiều trường hợp bị loại ra khỏi đối tượng xét duyệt do sự máy móc về câu chữ của văn bản pháp luật, dẫn đến thiệt thòi cho các đối tượng.
Ngoài vướng mắc trong việc xác định bệnh tật, quy định về các giấy tờ chứng minh thời gian tham gia hoạt động kháng chiến tại vùng mà quân đội Mỹ sử dụng chất độc hoá học chưa cụ thể, gây khó khăn cho đơn vị thực hiện. Cụ thể, theo quy định tại khoản 2, điều 57, Thông tư 05 của Bộ LĐ-TB&XH quy định hồ sơ hưởng chế độ ưu đãi đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học là “một trong những giấy tờ chứng minh thời gian tham gia hoạt động kháng chiến tại vùng mà quân đội Mỹ sử dụng chất độc hoá học: Quyết định phục viên, xuất ngũ; giấy X Y Z; giấy chuyển thương, chuyển viện, giấy điều trị; giấy tờ khác chứng minh có tham gia hoạt động kháng chiến tại vùng mà quân đội Mỹ sử dụng chất độc hoá học được xác lập từ ngày 30-4-1975 trở về trước. Bản sao: Lý lịch cán bộ, lý lịch đảng viên, lý lịch quân nhân, huân chương, huy chương chiến sĩ giải phóng”. Tuy nhiên, thực tế lý lịch cán bộ, lý lịch đảng viên, quyết định phục viên, xuất ngũ… chỉ ghi phiên hiệu đơn vị mà không ghi rõ địa điểm đơn vị đóng quân, chiến đấu do vậy khi tiếp nhận hồ sơ, cơ quan chức năng không có căn cứ xác nhận thời gian tham gia hoạt động kháng chiến của đối tượng tại vùng mà quân đội Mỹ sử dụng chất độc hoá học làm cơ sở tiếp nhận hồ sơ giải quyết chế độ ưu đãi.
Như vậy, ngoài một số quy định thiếu tính thực tiễn, một phần cũng phải kể đến việc chưa có sự phối hợp thống nhất, đồng bộ giữa các ngành chức năng, gây nên cách hiểu khác nhau, phiền hà cho các đối tượng khi thực hiện thủ tục. Người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học là những đối tượng phải chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội, các ngành liên quan cần sớm tháo gỡ vướng mắc để nhanh chóng giải quyết các chế độ cho đối tượng.
Thanh Hoa (Báo Quảng Ninh 1/4)