Ngược dòng lịch sử

Trong những năm đầu thập niên 30, kết quả nghiên cứu hóa học nông nghiệp đã cho thấy rất nhiều hóa chất tổng hợp có thể điều chỉnh hoặc hạn chế cây cỏ phát triển. Các chất này có nhiều hứa hẹn giúp nông dân diệt cỏ rất hiệu nghiệm, nhưng nhiều người cũng đánh giá cao tiềm năng sử dụng trong quân sự. Chất diệt cỏ có hiệu lực nhất được biết đến là 2,4-dichlorophenoxy axetíc acid (2,4-D)/Perter Schuck, 1986, Agent Orange on trial/. Mỹ đã nghiên cứu sử dụng chất diệt cỏ vào mục đích quân sự từ thập kỷ 40 của thế kỷ XX. Năm 1943, Giáo sư E. J. Kraus - Chủ nhiệm khoa thực vật trường Đại học Chicago đã ký hợp đồng với quân đội Mỹ nghiên cứu tác hại của chất 2,4,5-trichlorophenoxyaxetic (2,4,5-T) đối với cây lúa. Đến năm 1944, đề tài này chuyển sang TRung tâm nghiên cứu chiến tranh hóa học của quân dội Mỹ tại Fort Detrick, bang Maryland. Tại đây, người ta đã nghiên cứu trên 1.000 chất có khả năng phá hủy cây lương thực và trên 12.000 chất có khả năng làm rụng lá, trong đó có trên 700 chất có triển vọng đem sử dụng. Cuối chiến tranh thế giới lần II, Không quân Mỹ đã có kế hoạch sử dụng một số chất diệt cỏ để hủy diệt những cánh đồng lúa rộng lớn vùng ngoại ô 6 thành phố lớn Nhật Bản: Tokyo, Iocohama, Nagôia, Oxaca, Kyoto, và Kobe. Song chưa kịp sử dụng thì chiến tranh đã kết thúc.

Dự án Agile của Cơ quan Nghiên cứu nâng cao thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ (The DoD's Advanced Research Project Agency's - ARPA) đã thành công trong việc phát triển chất diệt cỏ thành một vũ khí quân sự, một ý tưởng được gợi ý bởi những thành công của người Anh sử dụng 2,4,5-T để phá hủy nguồn lương thực của quân nổi dậy ở Malaysia. ARPA tài trợ cho những thử nghiệm về sự kết hợp và nồng độ của những chất diệt cỏ, những nghiên cứu dò tìm liều lượng sử dụng cho hệ thống phun rải để đạt mật độ mong muốn 28 lít/ha (3 gallons/acre), và những thử nghiệm về điều kiện tối ưu (cỡ hạt sương; tốc độ gió, tầm cao và tốc độ khi bay phun). ARPA cũng phát triển một hệ thống đánh giá tại thôn ấp để thu thập những dữ liệu điều tra nhằm ước lượng số người bị phơi nhiễm chất độ hóa học.

Những đặc điểm của chất diệt cỏ 2,4-D và 2,4,5-T với tư cách là vũ khi đã được phát hiện trong các công trình nghiên cứu của quân đội Hoa Kỳ trong chiến tranh thế giới lần thứ II.

Các nhà khoa học quân đội tại phòng thí nghiệm thuộc Edgewood Arsenal đánh giá 2,3,7,8-tetrachlorodibenzo-p-dioxin là một tác nhân chiến tranh hóa học tiềm tàng. Vào năm 1957, họ đã nghe nói có một vụ bùng nổ bệnh chloracne trong một số nhà máy hóa chất Đức có sản xuất 2,4,5-trichlorophenol (TCB), nguyên liệu chính được sử dụng trong sản xuất 2,4,5-T và đã đọc một bài báo của Kimming và Schultz nhận diện được khối lượng nhỏ dioxin cũng có thể gây tổn thương nghề nghiệp cho công nhân./AP.9A - 64-65/.

Trong suốt thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, thử nghiệm sử dụng chất diệt cỏ vào mục đích quân sự được tiến hành ở Florida, Califonia, Indiana, Kentucky, Kansas, Montana, Maryland, Bắc Dakota, Utha, Rhode Island, Texas, Washington và New York. Hầu hết các cuộc thử nghiệm đều nhằm mục tiêu đối với cây trồng. Năm 1959, tại Trại Trống (Camp Drum, New York), 1.035 ha cây phong đường (sugar maples) và cây gỗ cứng khác đã bị phun trong một cuộc thử nghiệm khác để đánh giá hiệu quả của các chất khai quang rụng lá (defoliants). Đầu những năm 1969, các chất 2,4-D và 2,4,5-T được dùng để khai quang rụng lá, còn hợp chất chứa asen (acid cacodylic) được dùng để phá hoại mùa màng.

Ngoài ra, thử nghiệm chất diệt cỏ cũng được tiến hành ở Canada, Hàn Quốc, Puecto Rico, Ấn Độ và Thái Lan.

Trong những năm đầu thập niên 60, thế kỷ XX, Chính phủ Hoa Kỳ đã tiến hành các cuộc thí nghiệm nhiều loại hóa chất diệt cỏ, trong đó có 2,4-D và 2,4,5-T nhằm xác định thành phần cụ thể để đưa vào sử dụng tại Đông Nam Á. Người đầu tiên có kiến nghị đưa 2,4,5-T vào sử dụng tại Việt Nam là tiến sĩ J.W. Brown. Người thông qua kiến nghị của ông Brown là tiến sĩ Charles Manirik - Trưởng ban mùa vụ (Crop Division) tại Fort Detrick./AO.9A-66/. Việc thử nghiệm các dẫn xuất của 2,4-D và 2,4,5-T (butyleste, isobutyleste và iscooctyleste) được xúc tiến hết sức khẩn trương nhằm mục đích sau:

1. Lựa chọn chất diệt cỏ (herbicides) vào mục đích quân sự, đồng nghĩa với việc lựa chọn chất diệt cây (week killer, anti-plant hay phyotoxic agents);

2. Nghiên cứu tác hại gây ra đối với từng loại cây lương thực, cây lấy gỗ;

3. Nghiên cứu mật độ (liều lượng) sử dụng (số ga lông chất liệu diệt cỏ trên một đơn vị diện tích), thời gian rụng lá;

4. Nghiên cứu điều kiện tối ưu: nhiệt độ, độ ẩm không khí, tốc độ gió, độ cao và tốc độ má bay khi tiến hành phun rải chất diệt cỏ.

Năm 1959, Trung tâm nghiên cứu chiến tranh hóa học Fort Detrick tổ chức một cuộc diễn tập quy mô lớn tại Trại Trống (Fort Drum), New York trên một diện tích 4 dặm vuông. thành công của cuộc diễn tập nhanh chóng được Bộ Quốc phòng Mỹ ghi nhận và quyết định cho lập phương án sử dụng chất diệt cây (anti-plant) tại miền Nam Việt Nam trong khuôn khổ "Chương trình sử dụng chất diệt cỏ ở Đông Nam Á". Tiếp sau đó, đại tá J.W. Brown - Chủ nhiệm chương trình nghiên cứu nói trên đã tiến hành 18 cuộc thực hành phun rải chất diệt cỏ tại Texas, Hawaii, Puecto Rico và Thái Lan (gần Pran Buri). Những kết quả nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, ngoài thực địa và tại chiến tranh đã làm chi Tổng thống John F. Kennedy bị cuốn hút theo hướng chấp thuận khuyến nghị của các Bộ Quốc phòng và Ngoại giao - đồng soạn thảo cái gọi là Operation Hades (chiến dịch Tử thần) về sau được gọi là Operation Ranch Hand - tạm dịch là Chiến dịch khai quang, phá hủy hoa màu được ghi trong các văn thư chính thức của chính phủ VNCH.

Năm 1960

Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa (VNCH - Chính quyền Sài Gòn cũ) đã thông báo cho Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc rằng: Quân đội Việt Nam Cộng hòa đã sử dụng hóa chất vào mục đích khai quang làm rụng lá cây tạo một số vùng rừng rậm nhiệt đời Nam Việt Nam từ năm 1960

Ngày 7/6/1960.

"Công tác diệt trừ cây cỏ".

Bộ Tổng Tham mưu (QLVHCN) ban hành Chỉ thị về "Công tác diệt trừ cây cỏ". Nội dung gồm:

1. Thể thức để nghị nhu cầu khai quang bằng hóa chất (để phân biệt với phát quang bằng cách tỉa cành, chặt hạ cây xung quanh căn cứ hoặc ủi quang bằng máy ủi hạng nặng dọc hai bên tỉnh lộ, quốc lộ huyết mạch);

2. Hồ sơ đề nghị khai quang nêu rõ lý do xin khai quang, ghi rõ tịa độ mục tiêu và phóng đồ các mục tiêu đó;

3. Phụ bản tình báo;

4. Phụ bản tâm lý chiến và dân sự vụ;

5. Tờ cam kết bồi thường thiệt hại nếu có.

Thành lập Ban Phát triển khả năng tác chiến.

Cũng vào ngày này, Bộ TTM/QLVNCH ban hành quyết định thành lập Ban Phát triển khả năng tác chiến. Sau này (30/12/1962) đổi thành Trung tâm Thực hiện và Phát triển khả năng tác chiến - TTTN/PTKNTC (The Combat Development and Test Center for Creation of New Techniques). Trung tâm có nhiệm vụ: dự toán, tiếp nhận, quản lý, cấp phát hóa chất và một vài chủng loại phương tiện phun rải chất diệt cỏ như bình phun đeo lưng (Hand Sprayer); máy phun hóa chất Buffalo Turbine lắp đặt trên xe bọc thép, xe tải, xe hỏa hoặc tàu thuyền; máy ủi quang hạng nặng bundoser (Plow Rome) nặng 38 tấn cho các Vùng Chiến Thuật (VTC), Khu chiến thuật (KCT), Tiểu khu (TK), Quân đoàn (QĐ), Sư đoàn (SĐ).

Buffalo Tirbine lắp đặt trên xe tải phun chất diệt cỏ lên ruộng lúa

Phi vụ 8 chiếc C-123 đang hạ dần độ cao trước khi tiếp cận mục tiêu

Rome Plow đang thực hành ủi quang cây cối hai bên quốc lộ 15

Máy ủi quang Rome Plow lắp thêm máy cày

Hội nghị kế hoạch sơ bộ đã họp ngày 15/8/1960 tại Langley để bàn xin trang bị loại máy bay C.123 với sự có mặt của đại diện BTL Không quân chiến thuật (TAC), Lục quân, Hải quân và Bộ nông nghiệp Mỹ, Đại úy Carl W.Marshall - sĩ quan phụ trách Biệt đội phun rải hóa chất trên không (Special Aerial Spray Flight - SASF), người sau đó chỉ huy đơn vị Ranch Hand đã chủ trì buổi họp. Đại úy kiến nghị cải tiến C.123 để có thể phun rải hóa chất diệt côn trùng (insecticides) thể lỏng hay dạng hạt. /E.R. Zumwalt, Báo cáo gửi Bộ Cựu chiến binh/.

Bơm nạp chất diệt cỏ lên máy bay khai quang C-123

Năm 1961

Trong thập niêm 1950, quân đội Mỹ đã tiến hành các vụ thử nghiệm thực địa nhằm xác định tính khả thi của việc phun rải những chất diệt cỏ chiến thuật (tactical herbicides)m bằng máy bay; những cuộc thí nghiệm phun rải và hoạt động của các hệ thống phun rải trên không đã đặt nền tảng cho các hệ thống. Năm 1961, Cơ quan các Dự án Nghiên cứu Nâng cao (The Advanced Research Project Agency - ARPA) của Bộ Quốc phòng Mỹ đã đánh giá tính khả thi của việc làm rụng lá rừng nhiệt đới ở Việt Nam và khuyến nghị rằng các công thức phù hợp phải là 2,4-D và 2,4,5-T cần được khai thác để sử dụng ngay. Dự án này đã có công trong việc phát triển chất diệt cỏ thành một vũ khí quân sự, một ý tưởng được gợi ý bởi những thành công của người Anh dùng 2,4,5-T phá hủy nguồn lương thực trong những cuộc nổi dậy ở Malaysia.

Năm 1961, tức là từ khi Mỹ mới bắt đầu triển khai chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" với công thức cố vấn Mỹ cộng quân đội chính quyền Sài Gòn cũ một số cố vấn quân sự Mỹ có "sáng kiến" sử dụng chất độc hóa học làm rụng lá cây nhằm mục đích khai quang nơi tình nghi có du kích quân Việt cộng ẩn náu.

Kế hoạch 202 (khai quang, phá hủy hoa màu đối phương) năm 1961

Ngày 8/1/1961

Từ ngày 8 đến 25 tháng 1 năm 1961, một Nhóm nghiên cứu và phát triển, đứng đầu là William H. Godel, Phó Cục trưởng Cục các dự án nghiên cứu nâng cao Bộ Quốc phòng (Advanced Reserch Projéct Agency)/thăm Nam Việt Nam để thảo luận với các quan chức Việt Nam về việc thành lập một Trung tâm nghiên cứu và phát triển hỗn hợp Việt - Mỹ. Chuyến tham phù hợp quy định tại Điều 20 của Chương trình Tổng thống dành cho Việt Nam Cộng Hòa. (Tài liệu 56) Trong một cuộc trò chuyện với Godel và Mrgarr vào ngày 15, Tổng thống Diệm cho biết, trong số những công nghệ quân sự mới (New Military Technologies), rằng ông rất quan tâm đến sự phát triển của một chất làm rụng lá (defoliant) và muốn một trong những phép tăng trưởng nông nghiệp tiếp theo. (Telegram MAGCH - CS 921, ngày 16 tháng 6; Washington National Center Records, RG 330, Landsdale Files: FRC 63 A 1803).

Kết quả của chuyến thăm này là Tổng thống Diệm chỉ đạo các lực lượng vũ trang Việt Nam Cộng Hòa thành lập một trung tâm Thực hiện & Phát triển Khả năng Tác chiến được chỉ huy bởi một sĩ quan kỹ sư cao cấp, Đại tá Trạch, người đã báo cáo với ông ta (Diệm) thông qua các Tham mưu trưởng các lực lượng vũ trang. Tướng McGarr đồng tình với khuyến nghị của Nhóm nghiên cứu là một tổ chức riêng biệt được thành lập trong Nhóm Tư vấn Hỗ trợ Quân sự, một Văn phòng nghiên cứu và phát triển bao gồm năm người để điều hành các hoạt động chung. Nhóm nghiên cứu cũng đã phát triển một phương châm để thành lập Trung tâm được phê duyệt bởi Tổng thống Diệm và Đại sứ Nolting. Làm việc với đại diện MAAG và các cơ quan QL VNCH, Nhóm nghiên cứu Godel cũng soạn thảo một danh mục ban đầu các vấn đề và các dự án đề nghị được xem xét bởi Trung tâm. Trong một biên bản ghi nhớ ngày 12 tháng 7 gửi Lansdale, Godel báo cáo trên nền tảng và kết quả chuyến thăm của Nhóm NC&PT. Kèm theo biên bản ghi nhớ là một bản sao cho Trung tâm và danh mục các vấn đề và các dự án được đề xuất.

MAAG: Để trợ giúp quân viễn chinh Pháp chống lại Việt Nam, tháng 9 năm 1950, Tổng thống Mỹ Harry Truman đã cử một Phái bộ Cố vấn Quân sự (Military Assitance Advisory Group) đến Việt Nam. Phái bộ này không thực hiện nhiệm vụ như là những quân nhân chiến đấu, mà là để giám sát việc sử dụng các trang bị quân sự viện trợ trị giá 10 triệu USD để hỗ trợ cho Pháp trong nỗ lực của họ để chống lại lực lượng Việt Minh.

Sau Hiệp định Geneva, quân pháp rút khỏi Việt Nam. Ngày 12/12/1955, Chính phủ Mỹ quyết định các viện trợ quân sự của Mỹ sẽ chuyển trực tiếp cho Chính phủ Ngô Đình Diệm và trách nhiệm quân sự lớn sẽ được chuyển giao từ người Pháp sang cho MAAG với sự chỉ huy của Trung tướng Jonh O'Daniel. Đến tháng 6 năm 1956, số cố vấn tại MAAG lên tới 740 người, chia làm 4 nhóm ở mỗi quốc gia: Việt Nam - Lào - Campuchia.

Một bản báo cáo tóm tắt của Godel về cuộc viếng thăm của ông đã được gửi tới Hội thảo về Đông Nam Á tại Viện ngoại giao vào ngày 6 tháng 7 năm 1963. Godel đã thảo luận về kết quả chuyến đi cả mình đến Việt Nam với Tổ công tác Việt Nam. William Godel, một chuyên gia về kỹ thuật và thực hành chiến tranh tâm lý của BQP Hoa Kỳ. VNCH phản ứng với ý tưởng về một Trung tâm thực nghiệm và Phát triển Khả năng Tác chiến với sự nhiệt tình cao: Đích thân Tổng thống Diệm đã tiến hành không ít hơn ba cuộc phỏng vấn cá nhân với Godel và bổ nhiệm Đại tá Trạch giữ chưcs Giám đốc Trung tâm. (Ông Trạch được đặt dưới sự giám sát trực tiếp của Tổng thống). Trong số các khí tài quân sự mới được Godel giới thiệu có hệ thống báo động có thể cảnh báo QL VNCH ở khoảng cách 25 dặm. Thí nghiệm khác, một chất làm rụng lá để phát hiện khu vực xâm nhập biên giới. Đây làm một hoạt động tốn kém và kéo dài trong ba năm với hiệu quả tối đa. Godel đã nói về các chất hocmon thực vật (2,4-D và 2,4,5-T) để loại bỏ các cây sắn nuôi sống Việt Cộng trong khi hoạt động trong khu vực miền núi phía bắc Nam Việt Nam. /Foreign Relation US, 1961-1963, Vol 1, Vietnam-Hoạt động Đối ngoại của Hoa Kỳ, 1961 - 1963/.

Ngày 30/2/1961

Thành lập Ủy ban 202.

Việc khai quang, phá hủy hoa màu do chính quyền Sài Gòn thực hiện theo chủ trương và với sự viện trợ của Chính phủ Hoa Kỳ thông qua Bộ Tư lệnh Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (Military Asistance Command, Vietnam-MACV), trách nhiệm thực hiện được chính quyền Sài Gòn giao phó cho một Ủy ban mệnh danh là UB-202, thành lập ngày 30/2/1961 trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu/QLVNCH do Trưởng phòng Ba (Phòng Hành quân)/TTM làm Chủ tịch.

MACV được thành lập vào ngày 8 tháng 2 năm 1962, về danh nghĩa là cơ quan chỉ huy toàn bộ các lực lượng quân sự Mỹ tại Việt Nam, nhưng trên thực tế, có quyền hạn chỉ huy về mặt quân sự toàn bộ các lực lượng quân sự của Hoa Kỳ, VNCH và các đồng minh tại Việt Nam: Australia, New Zealand, Hàn Quốc, Phillipines, Thái Lan, Đài Loan. Chính điều này đã làm Tổng thống Ngô Đình Diệm rất khó chịu và đã tìm nhiều biện pháp để giảm sự ảnh hưởng của MACV đến quyền lực của ông. Đây cũng là một lý do dẫn đến cuộc đảo chính và cái chết của ông ta một năm sau đó.

Các đơn vị trực thuộc MACV:

1. Bộ chỉ huy Lục quân (United States Army, Vietnam - USARV).

2. Bộ Tư lệnh Hải quân (Naval Forces, Vietnam-NAVFORV).

3. Đệ thất Không lực Hoa Kỳ (Seventh Air Force, Vietnam-7AF).

4. Lực lượng Thủy bộ III (III Marine Amphibious Force-III MAF).

5. Lực lượng dã chiến số 1 (I Field Force, Vietnam-I FFV).

6. Lực lượng dã chiến số 2 (I Field Force, Vietnam-II FFV).

7. Quân đoàn 24 (XXIV Corp).

8. Lực lượng đặc nhiệm số 5 (5th Special Forces Group).

9. Cơ quan điều phối dân sự vụ và Phát triển nông thôn (Civil Operations and Rural Development Support-CORDS).

10. Nhóm Nghiên cứu và quan sát (Study-and Observations Group-SOG).

Tư lệnh MACV qua các thời kỳ 1962 - 1973:

VÙNG I CHIẾN THUÂT

Vùng 1 chiến thuật - Quân đoàn 1 thành lập ngày 1/6/1957, bao gồm các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi. Bộ Tư lệnh Vùng 1 chiến thuật đóng tại Đà Nẵng. Các khu chiến thuật trực thuộc vùng 1 là khu chiến thuật 11 (Bộ Tư lệnh đóng tại Huế) gồm các tiểu khu Quảng Trị và Thừa Thiên; Khu chiến thuật 12 (sở chỉ huy đóng tại Tam Kỳ) bao gồm các tiểu khu Quảng Ngãi, Quảng Tín và biệt khu Quảng Nam - Đà Nẵng.

VÙNG 2 CHIẾN THUẬT

Vùng 2 chiến thuật - Quân đoàn 2 thành lập ngày 01/10/1957, hoạt động tác chiến ở toàn bộ vùng cao nguyên miền Trung và vùng duyên hải Nam Trung Bộ, bao gồm các tỉnh Kontum, Plâyku, Phú Bồn, Bình Định, Phú Yên, ĐắcLắk, Khánh Hòa, Quảng Đức, Tuyên Đức, Ninh Thuận, Lâm Đồng và Bình Thuận. Trong vùng 2 chiến thuật có vùng chiến thuật đặc biệt bán tự trị, gói là Biệt khu 24 đóng tại thị xã Kontum do trung đoàn độc lập 24 đảm nhiệm, bao gồm toàn bộ khu biên giới giáp Lào (thành lập 07/1966 và giải thể 04/1970). Bộ tư lệnh Vùng 2 chiến thuật đóng tại Pleiku bao gồm khu chiến thuật 22 (Bộ tư lệnh ở Quy Nhơn) có các tiểu khu Bình Định, Phú Yên, Phú Bồn; Khu chiến thuật 23 (Bộ tư lệnh đóng tại Buôn Ma Thuột) gồm các tiểu khu ĐắcLăk, Tuyên Đức, Quảng Đức, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Bình Thuận và Ninh Thuận).

VÙNG 3 CHIẾN THUẬT

Vùng 3 chiến thuật - Quân đoàn 3 thành lập ngày 01/03/1959, chính thực hoạt động vào ngày 20/05/1960 bao gồm các tỉnh Phước Long, Bình Dương, Biên Hòa, Bình Long, Long Khánh, Phước Tuy, Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Long An, Sài Gòn và Gia Đình thành lập chỉ khu quân sự riêng. Vùng 3 chiến thuật có Khu chiến thuật 31 (sở chỉ huy đóng tại Tây Ninh) bao gồm các tiểu khu Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Long An; Khu chiến thuật 32 (sở chỉ huy tại Bình Dương) gồm các tiểu khu Bình Long, Phước Long, Bình Dương; Khu chiến thuật 33 (Bộ tư lệnh tại Biên Hòa) gồm các tiểu khu Long Khánh, Bình Tuy, Phước Tuy, Biên Hòa, Biệt khu Thủ Đô (SG - Gia Định).

VÙNG 4 CHIẾN THUẬT

Vùng 4 chiến thuật - Quân đoàn 4 thành lập ngày 01/01/1963, hoạt động tác chiến trên toàn bộ vùng đồng bằng sông Cửu Long, chiếm gần 1/2 dân cư và đất canh tác miền Nam Việt Nam, gồm các tỉnh Gò Công, Kiến Trường, Định Trường, Kiến Hòa, Kiến Phong, Sa Đéc, Vĩnh Long, Vĩnh Bình, Châu Đốc, An Giang, Phong Dinh, Ba Xuyên, Kiên Giang, Chương Thiện, Bạc Liêu và An Xuyên. Vùng chiến thuật đặc biệt bán tự trị 44 nằm trong vùng 4 chiến thuật có nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho khu vực phía Tây Bắc đồng bằng sông Cửu Long, dọc biên giới Việt Nam - Campuchia, hoạt động đến năm 1973 thì giải thể. Vùng 4 chiến thuật có khu chiến thuật 41 (sở chỉ huy ở Mỹ tho) gồm các tiểu khu Châu Đốc, An Giang, Sa Đéc, Vĩnh Long, Vĩnh Bình; Khu chiến thuật 42 (Bộ tư lệnh ở Cần Thơ) gồm các tiểu khu Kiến Giang, Phong Dinh, Chương Thiện, Ba Xuyên

Trích da cam Việt Nam