Trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, quân đội Mỹ đã tiến hành một cuộc chiến tranh hóa học dài ngày nhất, quy mô lớn nhất và gây hậu quả chưa từng có trong lịch sử loài người. Tháng 4/2012, Hội thảo khoa học quốc tế tổ chức tại Đại học Yale (Mỹ) quy tụ nhiều nhà khoa học hàng đầu thế giới, đánh giá những công trình nghiên cứu khoa học mới nhất về chiến tranh hóa học, đã kết luận: “Mỹ đã tiến hành một cuộc chiến tranh hóa học lớn nhất, độc ác và tàn bạo nhất trong lịch sử nhân loại” ở miền Nam Việt Nam. Trong lời kêu gọi của Hội nghị quốc tế nạn nhân chất độc da cam/dioxin (NNCĐDC) lần thứ II, tổ chức tại Hà Nội (8-9/8/2011), đã khẳng định “Việc sử dụng chất da cam trong chiến tranh ở Việt Nam là một tội ác chiến tranh và tội ác chống lại nhân loại. Hậu quả của hành động đó có thể tồn tại qua nhiều thế hệ”.

   Từ năm 1961 đến năm 1971, quân đội Mỹ đã phun rải khoảng 80 triệu lít chất độc hóa học (CĐHH), 61% trong số đó là chất da cam, chứa 366 kg dioxin, xuống gần 1/4 diện tích miền Nam Việt Nam. 86% diện tích bị phun rải hơn 2 lần, 11% diện tích bị phun rải hơn 10 lần. CĐHH quân đội Mỹ sử dụng gồm nhiều loại: chất hồng (Pink), chất xanh (Blue), chất trắng (White), chất xanh lá cây (Green), chất đỏ tía (Purple), chất da cam (Organe)…

Cháu Nguyễn Linh Chi là cháu của nạn nhân CĐDC tỉnh Yên Bái

    Dioxin là từ chung, chỉ 75 chất khác nhau. Độc tính của dioxin được xác định bởi số lượng và vị trí của nguyên tử clo trong phân tử. Những chất có 3 nguyên tử clo trở xuống ít độc hơn. Trong 75 chất có 7 chất độc tính cao, trong đó độc nhất là chất 2,3,7,8 tetra choloro-dibenzo-dioxin (TCDD). Cụm từ “chất độc da cam/dioxin” là chỉ chất độc da cam quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam. Đó là chất da cam chứa TCDD, là chất kịch độc, độc nhất trong tất cả chất độc mà loài người đã biết. Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO), người bị nhiễm vài nanogam (phần tỉ gam) đã có thể bị tai biến, còn khi bị nhiễm vài chục nanogam có thể chết người.

   Dioxin là sản phẩm phụ không mong muốn. Nếu sản xuất chất da cam đúng quy trình, thời gian 12 giờ, nhiệt độ 88,80C thì sự xuất hiện của dioxin không đáng kể. Nhưng vì chạy theo siêu lợi nhuận, các công ty hóa chất Mỹ đã rút thời gian xuống 8 phút và nâng nhiệt độ lên 277,70C, làm cho dioxin trong chất da cam tăng lên hàng trăm lần. Trong tự nhiên, dioxin cũng có thể được tạo ra do quá trình hoạt động công nghiệp, cháy rừng, núi lửa, đốt rác. Dioxin được tạo ra trong quá trình trên, TCDD chỉ chiếm không quá 10%; trong khi chất dioxin Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam, TCDD chiếm 20 đến 100%.

   Chiến tranh hóa học do Mỹ tiến hành ở miền Nam Việt Nam đã gây hậu quả chưa từng có trong lịch sử loài người. Hậu quả đó được các nhà khoa học trong nước và thế giới mô tả bằng các ngôn từ: bi thảm, diệt chủng, hủy diệt, nặng nề, kinh hoàng, khủng khiếp, khốc liệt, tàn khốc, thảm khốc, trầm trọng, thảm họa… Chúng ta dùng cụm từ “thảm họa da cam”. Thảm họa da cam tác động đến cả môi trường và sức khỏe con người.

Gia đình chị Phạm Thị Thủy, xã Cẩm Thạch, huyện Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh) có ba con bị di chứng CĐDC

Đối với môi trường:

   Với một lượng khổng lồ CĐHH phun rải lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài khiến môi trường bị ô nhiễm nặng nề. Rừng đầu nguồn, rừng ngập mặn bị CĐHH hủy diệt trở nên hoang sơ, chết chóc: không một cánh chim, không một cành lá, không cả tiếng côn trùng. Rừng bị hủy diệt đã tác động lên 28 lưu vực sông miền Trung. Có 16 lưu vực, trong đó rừng bị phá hủy chiếm 30% diện tích tự nhiên; 10 lưu vực mất 30-50 % diện tích và 2 lưu vực mất hơn 50 % diện tích. Phần lớn các con sông này ngắn, chảy qua những địa hình phức tạp, có ảnh hưởng trực tiếp đến vùng hạ lưu. Rừng phòng hộ đầu nguồn của 28 hệ sông bị tàn phá, làm cho lũ lụt, hạn hán nặng nề trên lưu vực các sông: Hương, Thạch Hãn, Hàn, Thu Bồn, Trà Khúc, Vệ, Cầu, Ba… Bởi vì có rừng, 95% nước mưa trở thành nước ngầm; không có rừng, 95% nước mưa chảy tràn trên mặt đất, gây xói mòn, lũ lụt. Năm 1995, Ngân hàng Thế giới (WBG) nhận xét: Sự tàn phá môi trường của cuộc chiến tranh lần thứ hai ở Đông Dương (1961 -1975) thật nghiêm trọng!

Đối với con người:

  Theo số liệu của các nhà khoa học Mỹ (Giáo sư J.M. Stellman và cộng sự Trường Đại học Columbia-New York, Tạp chí Nature số 422, ngày 17/4/2003), có 4,8 triệu người Việt Nam bị phơi nhiễm CĐDC/dioxin, hơn 3 triệu là NNCĐDC.

   Không phải chỉ có người Việt Nam, mà nhiều binh sĩ thuộc các nước đồng minh của Mỹ từng tham chiến ở Việt Nam cũng là NNCĐDC. Theo Đô đốc Elmo Zumwalt, nguyên Tư lệnh các lực lượng Hải quân, Không quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam (1968-1970), có ít nhất 2, 6 triệu lượt lính Mỹ bị phơi nhiễm dioxin. Hằng năm, Chính phủ Mỹ chi hàng tỷ USD cho các cựu chiến binh thương tật do chất da cam (riêng năm 2010 là 13, 5 tỷ USD). Hội Cựu chiến binh thương tật do chất da cam Hàn Quốc (KAOVA) cho biết: Hàn Quốc có 100.000 NNCĐDC, trong đó có 20.000 nạn nhân đã chết. Hằng năm, Chính phủ Hàn Quốc trợ cấp cho các NNCĐDC 130.000.000 USD.

   Ở nước ta, hàng trăm ngàn NNCĐDC đã chết. Những người còn sống đang hằng ngày, hằng giờ vật lộn với những căn bệnh quái ác bởi dioxin mà hình như y học bất lực. Họ sống trong đau khổ tột cùng cả về thể xác lẫn tinh thần, chết dần chết mòn và chết tức tưởi. Nhiều cựu chiến binh, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến sau chiến tranh trở về với đời thường, xây dựng gia đình như bao người khác và tưởng chừng mình sẽ hạnh phúc, nhưng không! Họ đã phải sống trong bi thảm, đau đớn, khi hàng ngày, hàng giờ phải chứng kiến những đứa con của mình sinh ra nhưng không nguyên vẹn, nhưng không thể bỏ đi, vì đó là giọt máu của mình, là con mình. Bao bà mẹ chín tháng mang nặng đẻ đau, nhưng đau khổ suốt đời vì sinh ra những “giọt máu” không lành - những đứa con tật nguyền vô phương cứu chữa. Đó là những đứa trẻ hoặc thiếu hoặc thừa các bộ phận cơ thể, hoặc đủ nhưng bị biến dạng, mất khả năng hoạt động: tai không thể nghe, mắt không thể nhìn, miệng không thể nói, chân không thể nâng bước, tay không thể ôm ấp, não không thể tư duy… Đó là những đứa trẻ câm, điếc, tâm thần, bại liệt, nhũn não, sống đời sống thực vật.

   Bao bà mẹ nuôi con mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm và lâu hơn thế, nhưng chưa một lần con biết nhìn mẹ, chưa một lần con cười, chưa một lần con cất tiếng mẹ ơi! Nhiều chị em phụ nữ đi qua chiến tranh, ngày trở về nhưng không được hưởng hạnh phúc làm vợ, làm mẹ, vì họ bị vô sinh, di chứng từ chất độc da cam/dioxin, họ sống một mình đơn côi và nhiều người không có nơi nương tựa. Thảm họa da cam đã cướp mất sự bình yên của hàng triệu gia đình người Việt Nam. Có nhiều gia đình mà tất cả các con đều là nạn nhân lại càng thê thảm. Đó là gia đình ông bà Đỗ Đức Địu, Phạm Thị Nức (thôn Hà Thiệp, xã Võ Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình), sinh 15 người con đều bị nhiễm CĐDC, 12 đứa đã chết và ông dành một khu đất sau nhà để làm nghĩa trang chôn con; những ngôi mộ được đánh dấu thứ tự từ số 1 cho đến số 12... Nạn nhân và gia đình NNCĐDC họ không có niềm vui, họ chẳng còn hy vọng, họ quên cả những nụ cười thường nhật, họ mất cả những háo hức khi cánh én báo mùa xuân về…

Nạn nhân Đỗ Thùy Dương, thị trấn Mỹ Xuyên, huyện Mỹ Xuyên, Sóc Trăng

    Rất, rất nhiều gia đình hiện có 2 đến 4 người là NNCĐDC, thậm chí có gia đình cả ba thế hệ là NNCĐDC, cuộc sống đầy cay đắng, tủi hờn, kinh tế kiệt quệ; trong nhà chỉ có tiếng khóc, tiếng gào thét, quậy phá; bữa ăn bát cơm của người thân chan đầy nước mắt. Nhiều người đau đớn dùng xích để xích con, làm cũi để nhốt con, thật đau đớn, tột cùng của đau đớn! CĐDC di truyền xuyên thế hệ, nhiều gia đình không còn duy trì được nòi giống. Qua các cuộc khảo sát về NNCĐDC ở một số địa phương cho thấy, Việt Nam chất độc da cam đã di truyền sang thế hệ thứ tư (chắt), như: Hà Nam có 88; Nghệ An có 21; Gia Lai có 66; Cà Mau 36… của nạn nhân trực tiếp bị di chứng CĐDC/dioxin.

   Những người cha, người mẹ ấy đau đáu một niềm lo âu khôn tả, là khi họ khuất núi, về với tổ tiên, những đứa con, đứa cháu tật nguyền của họ ở với ai? Sống thế nào? Câu hỏi ấy, trăn trở ấy, dành cho xã hội, dành cho chúng ta - những người may mắn hơn!

   NNCĐDC là người nghèo nhất trong những người nghèo, đau khổ nhất trong những người đau khổ. Chủ tịch Nguyễn Minh Triết trong thư gửi NNCĐDC nhân dịp ngày 10 tháng 8 năm 2006, có đoạn viết “Nỗi đau của NNCĐDC Việt Nam là nỗi đau chung của nhân dân Việt Nam và cũng là nỗi đau chung của nhân loại tiến bộ trên thế giới”. Và như vậy, Ngày 10/8 hằng năm sẽ là: Ngày Thảm họa da cam ở Việt Nam; Ngày Quốc tế đoàn kết với NNCĐDC Việt Nam; Ngày vì NNCĐDC Việt Nam.

   Những năm qua Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, chế độ đối với người có công với cách mạng, trong đó có người hoạt động kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm CĐHH do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam. Nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế đã dành cho NNCĐDC Việt Nam tình cảm, sự chia sẻ và trách nhiệm, giúp đỡ NN cả về vật chất lẫn tinh thần. Theo số liệu của Cơ quan quản lý Quỹ NNCĐDC của Hội NNCĐDC/dioxin Việt Nam, đến nay số tiền và vật chất quy ra tiền của cộng đồng trong nước và quốc tế ủng hộ NNCĐDC đã lên đến hàng nghìn tỷ đồng - một con số vô cùng ấn tượng! Theo đó, đời sống và sức khỏe của nhiều nạn nhân và gia đình họ được cải thiện rõ rệt, họ có cơ hội vươn lên, hòa nhập với cộng đồng…

    Giải quyết hậu quả CĐHH do Mỹ gây ra trong chiến tranh ở Việt Nam là vấn đề vừa cấp bách vừa lâu dài, đòi hỏi sự quan tâm của các cấp, các ngành và toàn xã hội. Bởi chiến tranh đã lùi xa hơn 45 năm, nhưng đến nay số người hoạt động kháng chiến và con đẻ của họ được hưởng chế độ theo quy định chiếm tỷ lệ thấp. Làm thế nào để cuộc sống của NN và gia đình họ được nâng lên và nỗi đau được xoa dịu? Đó là mong muốn của mỗi chúng ta và là ước nguyện của cả cộng đồng xã hội.

Trần Đình